Những câu đối khắc ở một số đình chùa đền miếu nhỏ trong thủ đô Hà Nội

0 out of 5
Liên hệ
Tượng Chân Dung Bác cao 25cm, tượng đồng Bác Hồ, bày bàn làm việc, kệ sách, tặng quà lưu niệm Kích thước: Cao 25cm Chất liệu: Đồng vàng, bóng, sáng bền đẹp
Thông tin chi tiết

Mô tả sản phẩm

Nhng câu đi khc mt s đình chùa đn miếu nh trong th đô Hà Ni

Câu đối ở Quốc Tử Giám:

Đông Tây Nam Bc do t đo

Công, Khanh, Phu, Sĩ xut th đ

Câu đối khắc ở chùa Bối Khê huyện Thanh Oai:

Bc quc chí kim kinh n (Nước phương Bắc (Trung Quốc) cho đến nay còn sợ cơn mưa (bão) giận)

Nam bang t c vng tường vân (Nước Nam nhỏ (Việt Nam) tự xưa vẫn trông ngóng mây lành)

Vế đầu câu đối nhắc đến lịch sử bảo vệ chủ quyền đất nước khi bị xâm lược, nhân dân ta đã quyết tâm làm nên những chiến thắng Bạch Đằng, Chương Dương, Hàm Tử, Chi Lăng, Đống Đa mà cho nay họ vẫn còn thấy kinh sợ. Vế thứ hai nêu lên tinh thần của nhân dân nước Nam ta vốn từ xưa vẫn có, chỉ mong ngóng mây lành cho cuộc sống hòa bình, hữu nghị).

Câu đối ở Miếu Trung Liệt – gò Đống Đa:

Câu đối này tưởng nhớ Hoàng Diệu, Nguyễn Tri Phương và các anh hùng nghĩa liệt:

Th thành quách, th giang san, bách chiến phong trn dư xích đa (Đó thành quách, đó giang sơn, trăm trận phong trần còn thước đất)

Vi nht tinh, vi hà nhc, thp niên tâm s cng thanh thiên (Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh)

Câu đối khắc ở chùa Lạc Lâm – Quốc Oai – Hà Tây cũ:

Danh li th trường thanh tnh tn tâm siêu xut tc

Chiến tranh thi đi t bi bt sát đ qun sinh

Câu đối Đức Ông tại chùa Thiên Phức (Còn gọi là chùa Bộc) ở Khương Thượng Đống Đa:

Đng lý vô trn đi đa sơn hà lưu đng vũ (Bụi trần trong động không còn, non sông đất nước lưu rường cột)

Quang trung hóa pht tiu thiên thế gii chuyn phong vân (Ánh sáng hóa thành phật cõi tiểu thiên thế giới chuyển gió mây)

Có tài liệu nói vua Quang Trung được thờ ở chùa Bộc, tượng Đức Ông chính là tượng Quang Trung, nhưng để tránh trả thù của nhà Nguyễn nên tượng và câu đối không dám đề rõ

Câu đi khc chùa C – Nam Đnh.

Vân ti sơn đu, b đáo sơn đu, vân hu vin (Mây phủ đầu non, bước tới đầu non, mây chẳng có)

Nguyt trm thy đ, lao cùng thy đ, nguyt hoàn không (Trăng chìm đáy nước, mò sâu đáy nước, trăng là không)

Câu đối này văn cảnh đã hay, nội hàm lại rất rộng. Câu đối phá chấp triệt để, lại muốn lý giải “Tánh Không”, cũng lại phảng phất Kinh Lăng Già. Thấy mây trùm đỉnh núi quá đẹp, tưởng đâu cảnh đẹp ấy có thật, quyết hăm hở đi cho đến đỉnh núi để xem mây. Nhưng đến đỉnh núi rồi, mây ở đây không có mà lại ở xa hơn. Nhìn trăng chiếu mặt nước, tưởng trăng nằm dưới đáy nước, nhảy xuống mò lặn hòng lấy được trăng, nhưng làm gì có trăng thật mà hòng lấy? Chớ thấy vạn hữu sum la như vậy mà chấp lầm vạn hữu “có thật như nó đang là”. Chỉ có người mê vọng mới chấp lầm như vậy, chứ người trí, người đã hiểu Đạo thì tránh được chấp lầm mê này.

Nhng câu đi trong các chùa chin thành ph Huế và tnh Tha Thiên.

Câu đối khắc ở chùa Diệu Đức – Huế:

Đăng minh phm vũ hi tam gii

Nguyt lãng thin quan ph thp phương

Câu đối khắc ở chùa Thiên Tôn – Huế:

Bo đc trường minh, bt đon môn tin lưu lc thy (Tiếng mõ vang dài, trước cửa không ngừng dòng suối biếc)

Pháp thân đc l, y nhiên ta lý khán thanh sơn (Pháp thân một lối, trong phòng cứ vậy ngắm non xanh)

Câu đối khắc ở tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ:

Hng hà sa gii Nam vô Pht

Bác nhã kinh văn Cc lc Thiên

Câu đối ở chùa Trường Xuân – Thuận Hóa:

Ngc cht giáng Hoàng cung, th thy cu long t mc dc

Kim thân tu Tuyết lĩnh, hàm hoa bách điu cnh triu tham

Từ câu đối này ta có thể giảng lại toàn thể lịch sử Đức Phật từ khi đản sinh đến khi thành đạo

Câu đối khắc ở chùa làng La Chử:

Vin quan sơn hu sc

Cn thính thy vô thanh

Câu đối diễn tả cảnh thực: xa xa về phía tây và phía nam là hình thế núi non hiện ra rất nhiều màu sắc, màu đất của đồi núi thấp ở gần; màu xanh đậm cây lá của núi ở xa, màu xanh dương đậm của những chỏm núí ở xa hơn và cao hơn. Lại thêm màu xanh da trời, màu trắng của từng đám mây xa, cao lơ lững… Cảnh đẹp thực khó tả. Bên sau vườn chùa rộng rải, ở dưới chân vùng đất cao có ngôi chùa tọa lạc ấy, lại có dòng nước chảy. Dòng nước nhỏ ôm bọc lấy cuộc đất, nước chảy thường xuyên nhưng lại không nghe tiếng róc rách. Câu đối vận dụng cảnh thực tế, và qua cảnh thực tế của một ngôi chùa mà nói lên bao nhiêu là giáo pháp của Đạo Phật. Các khái niệm “hữu, vô, thanh, sắc” ở đây không bao hàm nội dung có thiên hướng đòi lý giải; mà chúng chỉ cùng ứng với toàn bộ mười chữ của hai vế đối để nói lên cái ở sau văn tự, tức là lối diễn tả “ý tại ngôn ngoại”. Ở đây là muốn diễn tả Thiền đạo, thấy được cái không thấy. Ở xa thì núi có sắc tướng như vậy; nhiều màu khác nhau, hình thù cao thấp uốn lượn khác nhau; tròn, nhọn, lài lài khác nhau; nhưng núi đâu có phải thế! Cho nên người tu đạo Thiền, thấy được cái mà thiên hạ không thấy, tức là cái thực chất của núi; cao hơn là cái Thực của Đạo, của Giải thoát… Nghe được cái không nghe. Nghe tiếng nước róc rách là cái nghe vọng động. Nghe cái không nghe được mới thật là biết nghe.

Nhng câu đi khc chùa Phước Hu tnh Vĩnh Long.

Phước t trước như b c sông sâu, th li ngp đu, voi đi ướt đít

Hu v sau t đường dài đt rng, cò bay thng cánh, chó chy ngay đuôi

Hai chữ đầu hai vế là Phước – Hậu. Đây là câu đối làm riêng cho chùa này, trong đó có thỏ, voi, cò rồi chó, lại còn ướt đít, ngay đuôi. Thật là thoải mái, vô chấp. Ý tác giả muốn lấy những ngôn ngữ thường nhật của Phật tử, là những người dân chân đất để thêm gần gũi, hòa quang đồng trần…

Câu đi khc chùa Giác Lâm thành ph H Chí Minh.

Hoà thượng Trần Bửu Hương có tặng chùa Giác Lâm đôi câu đối như sau:

朝朝朝朝朝拜朝朝朝拜 Triêu triêu triu, triêu triêu bái, triêu triêu triu bái (Nhộn nhàng chầu, nhộn nhàng bái, nhộn nhàng chầu bái)

齊齊齋齊齊戒齊齊齋戒 T t trai, t t gii, t t trai gii (Lặng lẽ trai, lặng lẽ giới, lặng lẽ trai giới)

Đôi câu đối này cũng có thể dịch là: “Sáng sáng chầu, sáng sáng lạy, sáng sáng chầu lạy” và “Đều đều chay, đều đều tịnh, đều đều chay tịnh”. Theo các nhà nghiên cứu thì đôi câu đối này có xuất xứ từ chùa Thanh Vân (nay đã hoang tàn) ở thị trấn Xuân Loan, miền thượng du sông Mạc Dương bên Trung Quốc, nguyên bản như sau:

朝朝朝朝拜朝朝朝拜酬帝泽 Triêu triêu triu, triêu triêu bái, triêu triêu triu bái thù đế trch (Sáng sáng chầu, sáng sáng lạy, sáng sáng chầu lạy trả ơn vua)

齊齊齊齊齊戒齊齊齊戒答神恩 T t trai, t t gii, t t trai gii đáp thn ân (Đều đều chay, đều đều tịnh, đều đều chay tịnh đáp X thần)

Ngoài ra tại đền Thiên Hậu Thánh Mẫu ở Mi Châu, tình Phúc Kiến, cũng có hai câu gần tương tự:

朝潮朝潮朝朝潮朝朝潮音 Triêu triu, triêu triu, triêu triêu triu, triêu triêu triu âm

齊齊齊齊齊齊齊齊齊齊戒 T trai, t trai, t t trai, t t trai gii

Ở đây, chữ triều 朝 thay cho triều 潮 là thủy triều (chứ không phải chầu lạy) và nghĩa của hai câu là: Thủy triều buổi sáng, thủy triều buổi sáng, thủy triều các buổi sáng, tiếng thủy triều các buổi sáng; Đều chay, đều chay, đều đều chay, đều đều chay tịnh. Ý là: “Triều khởi giới âm” 潮起戒音, tức hễ tiếng sóng triều đánh vào bờ thì mọi người đều im lặng. Tương truyền hai câu này là của Thám hoa Đái Đại Tân đời Minh.

Có một dị bản khác của đôi câu đối trên nhưng vế trên lại đảo xuống vế dưới, xin đưa cả vào để độc giả nghiên cứu:

齊齊齋齊齊戒齊齋齊戒佛恩廣大 T t trai, t t gii, t trai t gii, Pht ân qung đi (Đều đều chay, đều đều tịnh, đều chay đều tịnh, ơn Phật rộng lớn)

朝朝朝朝朝拜朝朝朝拜功德無量 Triêu triêu triu, triêu triêu bái, triêu triu triêu bái, công đc vô lượng (Sáng sáng chầu, sáng sáng lạy, sáng chầu sáng lạy, công đức không lường)

Đây là hai câu đối của chùa Phong Ninh ở thị trấn Thạch Loan, tỉnh Quảng Đông và cặp đối này cũng có hai chữ cuối câu (đại, lượng) thuộc vần trắc.

Câu đi khc chùa Nhn Sơn – Bình Đnh.

Ngoan thch đim đu, thch kh vi nhân, nhân tác Pht (Đá rắn gật đầu, đá hẳn là người, người làm Phật)

Nhn sơn hi th, sơn khai chánh pháp, pháp truyn nhân (Non nhạn hướng lễ, non mở chánh pháp, pháp truyền người)

Câu đi khc chùa Hi Khánh – Sông Bé.

Nhược thc nhược hư, trúc nh to giai trn bt đng (Như thực như hư, bóng trúc quét thềm, bụi trần vẫn tạnh)

Th không th sc, nguyt xuyên hi đ thy vô ngn (Là không là sắc, ánh trăng xoáy biển, sóng biển không nhồi)

– Ngoài ra, xin giới thiệu 1 số mẫu dùng trong gia đình, nhà thờ họ, nhà thờ tổ:

Đánh giá và bình luận
Sản phẩm: Những câu đối khắc ở một số đình chùa đền miếu nhỏ trong thủ đô Hà Nội
0
0 out of 5
Có 0 đánh giá
  • 0%
    0 đánh giá
  • 0%
    0 đánh giá
  • 0%
    0 đánh giá
  • 0%
    0 đánh giá
  • 0%
    0 đánh giá

Đánh giá

Chưa có đánh giá nào.

Chia sẻ nhận xét của bạn

Bạn đang băn khoăn cần tư vấn? Vui lòng để lại số điện thoại hoặc lời nhắn, nhân viên sẽ liên hệ trả lời bạn sớm nhất

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *